Có những chính sách xét về đạo lý là rất tốt, xét về nguyên tắc là chặt chẽ để tránh trục lợi...
Đại dịch Covid-19 bùng phát trở lại vào hồi cuối tháng 7 vừa qua đã khiến cho các chuỗi sản xuất, cung ứng cũng như các hoạt động du lịch, đi lại, sản xuất... bị ảnh hưởng. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), tình hình dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp, chưa biết bao giờ kinh tế thế giới mới nối lại các chuỗi sản xuất, cung ứng. Do vậy, việc nhanh chóng đưa ra các giải pháp, chính sách cho giai đoạn hiện nay là rất quan trọng nhằm giảm thiểu thiệt hại, duy trì sản xuất ở mức hợp lý nhất, tranh thủ cơ hội để nhanh chóng khắc phục, phục hồi lại nền kinh tế với thời gian ngắn và chi phí thấp. Xác định sẽ có nhiều khó khăn dồn dập, chồng chất do cú bồi của dịch Covid-19 lên nền kinh tế, Chính phủ đã quyết định tiếp tục nghiên cứu để xây dựng gói “trợ thở” lần thứ hai cho nền kinh tế, sau khi những giải pháp hỗ trợ từ chiến dịch “trợ thở” lần thứ nhất chưa đem lại hiệu quả thực sự.
Trong lần bùng phát dịch Covid-19 đầu tiên, Chính phủ đã có nhiều gói hỗ trợ nhằm “tiếp sức” cho nền kinh tế như: gói hỗ trợ về tài khóa có quy mô 180.000 tỷ đồng với các biện pháp giãn, giảm thuế, phí, tiền sử dụng đất, gói hỗ trợ tiền tệ 250.000 tỷ đồng và một gói hỗ trợ an sinh xã hội 62.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, quá trình triển khai các gói hỗ trợ giai đoạn vừa qua rất chậm, làm mất tính kịp thời của chính sách và còn thiếu các chính sách hỗ trợ đủ mạnh nên hiệu quả của các gói hỗ trợ vẫn chưa được như kỳ vọng. Trong đó, gói 62.000 tỷ đồng hỗ trợ an sinh xã hội đến nay mới giải ngân được hơn 17.000 tỷ đồng. Gói hỗ trợ 180.000 tỷ đồng miễn, giảm, hoãn thuế cho các doanh nghiệp dù là tốt nhưng lại chỉ dành cho các doanh nghiệp vẫn có lãi, các doanh nghiệp lỗ thì có giãn hay giảm thuế thì cũng không có ý nghĩa gì.
Theo TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, về định hướng, các chính sách này là phù hợp, như giảm lãi vay và thuế phí, tăng thêm nguồn lực cho DN, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh, tăng cầu nội địa… nhưng đây là những giải pháp manh mún, dàn trải.
Ông Cung cho rằng, trên thực tế, mức độ DN được hưởng lợi là không đáng kể. Chẳng hạn, với chính sách gia hạn nộp thuế, chỉ DN vẫn còn doanh thu để nộp thuế mới được hưởng lợi, còn những DN khó khăn đến mức không có doanh thu thì chính sách gia hạn thuế hay miễn thuế cũng không có ý nghĩa… Ngoài ra, việc gia hạn thuế cũng chỉ trong 5 tháng, đến cuối năm DN vẫn phải nộp những khoản nợ này trong khi tình hình đang vẫn rất khó khăn…
Bên cạnh đó, có những chính sách xét về đạo lý là rất tốt, xét về nguyên tắc là chặt chẽ để tránh trục lợi, nhưng những điều kiện để hưởng chính sách này không mang lại lợi ích gì cho DN mà có tác dụng ngược. Đơn cử như điều kiện hỗ trợ cho những DN có 50% số lao động nghỉ việc, DN bị tổn hại 50% tài sản... Khi DN ở tình trạng này coi như đã phá sản, còn việc xác định thiệt hại cũng mất nhiều thời gian và thủ tục, trong khi DN cần hỗ trợ ngay để sớm phục hồi.
Từ góc độ tiếp cận của DN, ông Tô Hoài Nam, Tổng thư ký, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cũng cho rằng, gói hỗ trợ kinh tế lần 1 vẫn có những chính sách chưa như kỳ vọng như: Chính sách giãn, hoãn nộp thuế, đóng bảo hiểm xã hội; hỗ trợ cho DN vay trả lương với lãi suất 0% chưa phù hợp. Còn chính sách về tín dụng, Nghị quyết của Chính phủ mang tính chủ trương nhiều hơn và chủ yếu giao về các Bộ, ngành triển khai thực hiện, từ đó “đẻ” ra nhiều quy định hướng dẫn mới.
“Đơn cử như Thông tư 01 của Ngân hàng Nhà nước quy định giao các ngân hàng hàng thương mại triển khai chính sách hỗ trợ DN. Tuy nhiên, ngân hàng là tổ chức, DN có pháp nhân độc lập, mức đánh giá tín nhiệm khác nhau, quy trình kinh doanh khác nên việc áp dụng Thông tư cũng khác nhau. Vì thế, có ngân hàng thực hiện tốt chính sách, chủ trương của Chính phủ, ngược lại có ngân hàng lại không thực hiện được”, ông Tô Hoài Nam cho hay.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, để xây dựng gói hỗ trợ nền kinh tế lần hai, bên cạnh phải đánh giá lại việc thực hiện cũng như đề xuất kéo dài gói hỗ trợ thứ nhất, cần phải đánh giá lại kinh tế năm 2020 - là năm nguồn thu ít, chi nhiều, bội chi lớn và sẽ vượt chỉ tiêu... sau đó mới tính đến chuyện nếu hỗ trợ DN thì sẽ miễn, giảm... như thế nào. Bên cạnh việc ra quyết định nhanh hơn, chú ý tới khâu thực thi chính sách,
“Lần hỗ trợ này không chỉ dừng lại ở hoãn, giãn các nghĩa vụ mà còn phải có miễn, giảm, và điều này chắc chắn sẽ gây ra bội chi ngân sách lớn. Vì vậy, có hai cách, một là phải tính toán được tổng mức hỗ trợ cho nền kinh tế là bao nhiêu và từ đó cân đối để đưa ra mức bội chi ngân sách phù hợp. Hai là, xác định tỷ lệ bội chi cho phép, từ đó, đưa ra mức hỗ trợ. Sau khi xác định được mức hỗ trợ, xác định rõ đối tượng được hỗ trợ cụ thể là ai, mức hỗ trợ là bao nhiêu, không được hỗ trợ ào ào, cào bằng. Cách thứ hai phù hợp với điều kiện của Việt Nam”. TS. Nguyễn Đình Cung nêu ý kiến.
Còn theo TS. Võ Trí Thành, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, gói hỗ trợ mới ngoài quy mô lớn hơn, có diện hỗ trợ bao trùm tổng thể nhưng đồng thời cũng phải có cả những trọng tâm, lĩnh vực riêng, chẳng hạn như: hỗ trợ trực tiếp người lao động, chính sách cho các DN lớn không phân biệt thành phần kinh tế. Đồng thời, cần phải ban hành nhanh, thực hiện quyết liệt.
“Gói hỗ trợ cần được sớm ban hành, nếu không sẽ không còn ý nghĩa. Gói hỗ trợ này có tứ cần, đó là diện - điểm - tốc độ và quy mô”, TS. Võ Trí Thành nhấn mạnh.
TS. Võ Trí Thành cho rằng, “trong nguy có cơ. Hãy làm tốt nhất những gì có thể”. Ủng hộ các chính sách của Chính phủ trong nỗ lực chống dịch và thúc đẩy tăng trưởng, nhưng theo TS.Võ Trí Thành, trong hoạch định chính sách, điều hành chính sách và cả trong thực thi thì quan trọng nhất, quyết định nhất là tinh thần thời chiến, quyết liệt, khẩn trương, là “tư duy lại, thiết kế lại và xây dựng lại” trong một thế giới đang đổi thay trong một tình hình đang đầy bất định. Đặc biệt, việc sớm đưa ra gói hỗ trợ kích thích kinh tế thì “chúng ta sẽ đạt được kết quả tốt nhất có thể”.
Theo quan điểm của ông Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, để nền kinh tế duy trì ổn định và tăng trưởng cao trong giai đoạn hậu Covid-19, gói hỗ trợ thứ hai cần có chính sách phù hợp, có quy mô tác động đủ lớn, thời gian thực hiện trong trung và dài hạn đáp ứng 4 mục tiêu. Cụ thể là: đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để nền kinh tế phục hồi nhanh trong giai đoạn hậu Covid-19; hỗ trợ các hoạt động kinh tế, đặc biệt là khu vực DN nhằm ngăn chặn và giảm thiểu tình trạng mất thanh khoản, phá sản, giải thể DN, tạo điều kiện để khu vực DN phục hồi nhanh khi tác động của dịch Covid-19 suy giảm và chấm dứt; thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế phù hợp với những thay đổi trên thế giới sau đại dịch; kích thích tiêu dùng trong nước, bảo đảm an sinh xã hội.
“Khu vực DN Việt Nam đóng góp trên 60% GDP của nền kinh tế với trên 756.000 DN đang hoạt động. Do đó, gói hỗ trợ lần thứ hai cần tập trung đặc biệt vào khu vực DN để thực hiện, đồng thời hỗ trợ DN duy trì sản xuất và cơ cấu lại nền kinh tế”, ông Nguyễn Bích Lâm nêu ý kiến.
Ông Lâm cho rằng, trước mắt cần rà soát các điều kiện để DN có thể tiếp cận gói hỗ trợ tín dụng. Thực tế trong thời gian qua, với gói hỗ trợ trị giá 250.000 tỷ đồng, nhưng với điều kiện hỗ trợ chưa phù hợp, phức tạp, thiếu khả thi và chưa sát thực tế với khu vực DN, nên chỉ có khoảng 20% số DN đáp ứng được yêu cầu của gói hỗ trợ này. Bên cạnh đó, cần tiếp tục gia hạn nộp thuế thu nhập DN, tiền thuê đất cho DN, đồng thời, xem xét cắt giảm giá điện cho khu vực DN, các hộ kinh doanh để giảm chi phí và áp lực tài chính ngắn hạn cho DN và các hộ sản xuất kinh doanh.
Trao đổi với phóng viên VOV, ông Tô Hoài Nam cho rằng, hỗ trợ DN cần sự công bằng, bởi mỗi DN đều có vai trò khác nhau đối với nền kinh tế, ngoài vấn đề kinh doanh của DN còn liên quan đến lao động, việc làm. Nếu không cứu DN thì lao động thất nghiệp gia tăng, gây bất an cho xã hội và khi đó, kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng. Do đó, gói hỗ trợ lần 2 cần tính kỹ và triển khai theo cách thức khác nhau, phù hợp với thực tiễn của sức khỏe DN và nền kinh tế; ưu tiên gắn kết tạo chuỗi để tương thích với văn bản pháp luật sẵn có và có tính hiệu quả. Bên cạnh đó, cần thêm các quy định, hỗ trợ tập trung cho ngành sản xuất có tính mũi nhọn, mang lại nguồn thu quốc gia lâu dài, ổn định.
Mới đây, Bộ KH&ĐT đã đề nghị các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị của Bộ KH&ĐT phải nắm chắc tình hình hoạt động của các DN để có được bức tranh toàn cảnh của từng ngành, lĩnh vực, từ đó xây dựng được các cơ chế, chính sách phù hợp.
“Về nguyên tắc, chính sách lần 2 phải bao quát toàn diện các đối tượng, phải đủ lớn, đủ mạnh để tác động ngay, kích thích tăng trưởng kinh tế. Các chính sách đều phải gắn đến quản lý cơ cấu các ngành, lĩnh vực, phải gắn với tái cơ cấu và những lĩnh vực liên quan. Gói hỗ trợ phải đảm bảo đa mục tiêu chứ không chỉ kích thích tăng trưởng kinh tế”, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng lưu ý./.
Theo VOV.VN
https://vov.vn/emagazine/cac-goi-tro-tho-kinh-te-can-trong-tac-dung-nguoc-782061.vov