Hợp lý hóa các hàng rào phi thuế quan để giảm gánh nặng quy định đối với các doanh nghiệp vẫn là ưu tiên hàng đầu cho sự phục hồi của khu vực ASEAN khỏi đại dịch Covid-19. Vào tháng 11/2020, Ban Thư ký ASEAN đã công bố Khuôn khổ phục hồi toàn diện ASEAN (ACRF) và kế hoạch thực hiện, trong đó đề ra các chiến lược phục hồi rộng rãi phù hợp với các ưu tiên của ngành và khu vực.
ACRF có thể được coi là chiến lược tổng hợp nhất của ASEAN khỏi cuộc khủng hoảng Covid-19. Các biện pháp tạo thuận lợi thương mại trong kế hoạch thực hiện ACRF bao gồm hài hòa hóa các tiêu chuẩn đối với các mặt hàng thiết yếu và mở rộng Cơ chế một cửa ASEAN cho các đối tác đối thoại ASEAN, nhằm giảm chi phí tuân thủ quy định và những trở ngại về thủ tục cho những giao dịch với khu vực.
Xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm tăng mạnh
Trước đại dịch, sự gia tăng mạnh mẽ của sản xuất và tăng trưởng thu nhập ở các quốc gia thành viên ASEAN đã dẫn đến cả xuất khẩu và nhập khẩu nông sản thực phẩm đều tăng mạnh. Năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của ASEAN đạt 141 tỷ USD, 1/3 trong số đó bao gồm thương mại nội khối ASEAN. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chính bao gồm dầu cọ, sản phẩm cá, lâm sản, cao su và gôm, trái cây và gạo.
Cùng năm đó, tổng nhập khẩu nông sản của ASEAN đạt 103 tỷ USD, bao gồm các sản phẩm đậu tương, sản phẩm cá, sản phẩm lúa mì, sản phẩm sữa và trái cây. Một lần nữa, khoảng 1/3 trong số này bao gồm thương mại nội khối ASEAN. Kể từ khi bắt đầu đại dịch, sản xuất lương thực đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tỷ lệ mắc bệnh của công nhân gia tăng, sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng và các biện pháp ngăn chặn Covid-19. Những nỗ lực của chính phủ nhằm hạn chế xuất khẩu lương thực để đáp ứng nhu cầu trong nước có thể khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn nhiều.
Về phía cầu, nhập khẩu nông sản đã bị cản trở bởi chi phí thương mại liên quan đến các biện pháp phi thuế quan (NTM). NTM là các biện pháp chính sách khác với thuế quan thông thường ảnh hưởng đến các nhà sản xuất, nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa bằng cách tăng chi phí thông tin, tuân thủ và thủ tục.
Ví dụ, việc tuân thủ tiêu chuẩn sản phẩm thực phẩm do nước nhập khẩu áp đặt bao gồm chi phí một lần cho việc thiết kế lại sản phẩm và tạo ra một hệ thống để quản lý những thay đổi đó. Chi phí tuân thủ như vậy có thể tăng lên do các yêu cầu khác nhau của các thị trường xuất khẩu khác nhau và các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật khác nhau do các nước nhập khẩu áp đặt.
Ở ASEAN, nhu cầu giảm chi phí thương mại liên quan đến NTM đã được ghi nhận trong hơn một thập kỷ nay. Theo Hiệp định khung ASEAN về hội nhập các lĩnh vực ưu tiên, được ký năm 2004, các quốc gia thành viên đã và đang làm việc để giảm tác động bóp méo thương mại của các NTM đối với thương mại nông sản.
Hiệp định có ba mục tiêu: thiết lập cơ sở dữ liệu về các NTM của ASEAN vào ngày 30/6/2004; đưa ra tiêu chí xác định các NTM là rào cản đối với thương mại vào ngày 30/6/2005; và thiết lập một chương trình làm việc dứt điểm để xóa bỏ các NTMs là rào cản đối với thương mại vào cuối năm 2005. Cam kết của các quốc gia thành viên trong việc hợp lý hóa các NTM đã được tăng cường nhờ việc thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) kể từ năm 2010, theo đó các quốc gia thành viên được yêu cầu xác định các hàng rào phi thuế quan để loại bỏ.
3 đặc điểm nổi bật của thương mại nông sản ASEAN
Tuy nhiên, cải cách quy định về NTM ở ASEAN tiến triển chậm. Cơ sở dữ liệu NTM toàn cầu cho thấy bất chấp những nỗ lực hết mình của ASEAN, NTMs về thương mại nông sản trong các lĩnh vực ưu tiên của ASEAN đã tăng từ 434 biện pháp năm 2000 lên 1.192 biện pháp năm 2010 và lên 2.181 biện pháp vào năm 2019.
Về phía nhập khẩu, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS) chiếm thành phần lớn nhất của NTM, chiếm khoảng một nửa tổng số các biện pháp. Các biện pháp này chủ yếu được thúc đẩy bởi các cân nhắc về chính sách phi thương mại như mối quan tâm của người tiêu dùng đối với chất lượng và an toàn sản phẩm. Các biện pháp còn lại bao gồm các điều kiện tiếp cận thị trường đa dạng như giấy phép nhập khẩu, yêu cầu kiểm tra, thử nghiệm và chứng nhận, yêu cầu về nhãn mác và đóng gói. Số lượng lớn nhất các biện pháp SPS được ghi nhận ở Thái Lan (282), tiếp theo là Philippines (150), Indonesia (144), Malaysia (88) và Việt Nam (83).
Hai quốc gia thành viên phụ thuộc vào nhập khẩu lương thực - Singapore và Brunei - có một số biện pháp SPS vừa phải. Campuchia, Lào và Myanmar có số lượng các biện pháp SPS thấp nhất trong ASEAN. Để đánh giá mức độ mà SPS đang hạn chế xuất khẩu nông sản của các quốc gia thành viên sang các thị trường ASEAN khác, các nhà phân tích đã tính toán mức độ tiếp xúc của mỗi quốc gia đối với các biện pháp SPS. Nghiên cứu cho thấy ba đặc điểm nổi bật của thương mại nông sản thực phẩm ở ASEAN.
Thứ nhất, tác động tăng giá của tổng số các biện pháp SPS đối với nhập khẩu nông sản thực phẩm khác nhau giữa các quốc gia thành viên. Quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi các biện pháp SPS là Việt Nam, nơi các yêu cầu này đã đẩy giá nông sản thực phẩm nhập khẩu tăng 116,4%, tiếp theo là Brunei (94,5%), Myanmar (61,9%), Philippines (60,3%), và Thái Lan (48,7%). Ngược lại, tác động của các biện pháp SPS đối với nhập khẩu nông sản tương đối thấp ở Singapore (14,5%), Malaysia (20,4%) và Lào (22,6%). Giá các sản phẩm nông sản nhập khẩu cao hơn sẽ làm giảm nhu cầu đối với các sản phẩm đó từ các quốc gia thành viên khác một cách hợp lý.
Thứ hai, 5 quốc gia thành viên xuất khẩu ít nhất 20% tổng lượng nông sản xuất khẩu sang các nước ASEAN khác. Đó là Campuchia (70,3% tổng kim ngạch xuất khẩu), Lào (68,7%), Singapore (40,6%), Brunei (33,9%) và Myanmar (22,7%). Các quốc gia thành viên còn lại xuất khẩu hầu hết các sản phẩm nông sản sang các nước ngoài khu vực. Bất kể tỷ trọng xuất khẩu nội khối ASEAN trong tổng xuất khẩu, tất cả các mặt hàng nông sản xuất khẩu của các quốc gia thành viên đều tập trung ở một số thị trường. Ví dụ, 63,9% nông sản xuất khẩu của Campuchia đến Malaysia, trong khi Indonesia chủ yếu xuất sang Malaysia, Singapore và Việt Nam. Việc tập trung xuất khẩu nông sản sang các thị trường có các biện pháp SPS nặng nề có khả năng làm giảm đáng kể thương mại nông sản trong khu vực.
Thứ ba, nông sản xuất khẩu từ 5 quốc gia thành viên có khả năng bị ảnh hưởng rất cao đối với các biện pháp SPS do chính phủ các quốc gia thành viên khác áp đặt đối với nông sản nhập khẩu, đó là Singapore, Indonesia, Campuchia, Malaysia và Thái Lan, tất cả đều có tỷ lệ ảnh hưởng cao tại ít nhất bốn thị trường ASEAN. Đây là hệ quả của việc tập trung xuất khẩu cao của các biện pháp SPS vào thị trường nội khối ASEAN.
Ví dụ, Singapore xuất khẩu khoảng 16,3% tổng lượng nông sản xuất khẩu sang Malaysia, quốc gia có các biện pháp SPS đáng kể được áp dụng đối với các loại hàng nhập khẩu này. Đồng thời, các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Singapore sang các thị trường khác có các biện pháp SPS nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như Việt Nam hoặc Philippines, bị điểm tiếp xúc thậm chí còn cao hơn, điều này dẫn đến việc xuất khẩu của họ bị giảm.
Đẩy nhanh cải cách thương mại nông sản
Kết quả cho thấy, cần phải đẩy nhanh cải cách NTM đối với thương mại nông sản ở cả cấp khu vực và trong nước. Chi phí thương mại xuyên biên giới có xu hướng tăng lên cùng với sự gia tăng của các NTM. Sự gia tăng của các biện pháp SPS và các điều kiện tiếp cận thị trường khác phản ánh sự khác biệt về trình độ phát triển, truyền thống thủ tục đa dạng trong việc ban hành và ban hành các quy định và các mức độ bảo vệ khác nhau.
Các yêu cầu pháp lý khác nhau có thể dẫn đến sự trùng lặp tốn kém trong phát triển, sản xuất và thử nghiệm sản phẩm - những trở ngại ảnh hưởng nhiều nhất đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Chi phí như vậy có thể là yếu tố cản trở quyết định xuất khẩu hay đầu tư. Những cải cách hơn nữa đối với lĩnh vực nông sản thực phẩm sẽ nhắm vào các nhóm sản phẩm dựa trên mức độ nghiêm trọng của các NTM hiện đang được áp dụng.
Trong ngắn hạn, ASEAN với tư cách là một nhóm sẽ tập trung vào nhóm các sản phẩm có mức độ chịu tác động méo mó thương mại của các biện pháp kỹ thuật và phi kỹ thuật ở mức độ cao. Trình tự sắp xếp hợp lý các NTM sẽ bắt đầu bằng các biện pháp phi kỹ thuật nặng nề nhất (tức là các biện pháp kiểm soát số lượng, các biện pháp bảo hộ thương mại khẩn cấp), sau đó là các biện pháp kỹ thuật (tức là các biện pháp SPS và tiêu chuẩn sản phẩm). Trong trung hạn, ASEAN sẽ tập trung vào nhóm các sản phẩm có các biện pháp phi kỹ thuật và công nghệ ít tác động hơn.
Các biện pháp phi kỹ thuật như các biện pháp kiểm soát số lượng và các biện pháp bảo hộ thương mại khẩn cấp cần được loại bỏ hoặc thay thế bằng các biện pháp khác ít gây tác động bóp méo thương mại hơn. Ví dụ, hạn ngạch thuế quan và các yêu cầu cấp phép nhập khẩu cần được thay thế bằng thuế quan và báo cáo hàng nhập khẩu sau khi xuất xưởng dựa trên các mục nhập cảnh hải quan, tương ứng.
Các biện pháp kỹ thuật như SPS và tiêu chuẩn sản phẩm cần được đơn giản hóa hoặc hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế để giảm tác động bóp méo thương mại, đồng thời duy trì các mục tiêu của chính sách phi thương mại như bảo vệ sức khỏe con người, động vật và thực vật.
Theo Duy Hưng/Báo Công Thương
https://congthuong.vn/tai-sao-asean-can-cat-giam-cac-bien-phap-phi-thue-quan-doi-voi-nhap-khau-nong-san-thuc-pham-169262.html