Các liên minh này đã gửi thư kiến nghị góp ý đến Bộ Công Thương, chỉ ra nhiều vấn đề nếu vẫn phát triển nhiệt điện than trong thời gian tới.
3 liên minh đề nghị cần xem xét tính phù hợp, khả thi và hệ lụy của kế hoạch tiếp tục phát triển điện than mới, giai đoạn 2021-2030. Ảnh minh họa: EVN.
Cụ thể, Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), Liên minh Phòng chống các Bệnh không lây nhiễm Việt Nam (NCDs-VN) và Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN) vừa gửi thư kiến nghị góp ý cho dự thảo Quy hoạch điện VIII.
Tại văn bản góp ý này, 3 liên minh trên đã kiến nghị Bộ Công Thương không phát triển thêm dự án điện than mới, đặc biệt là trong giai đoạn 10 năm tới. Thay vào đó, Bộ nên ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời phân tán và điện gió.
Dự thảo Quy hoạch điện VIII đã cho thấy xu hướng giảm dần tốc độ phát triển điện than và tăng dần tốc độ phát triển năng lượng tái tạo theo các giai đoạn.
Tuy nhiên, theo các liên minh nêu trên, trong vòng 10 năm tới (2021-2030) nhiệt điện than vẫn được ưu tiên tăng mạnh với việc bổ sung khoảng 17 GW điện than mới vào hệ thống.
Do vậy, các tổ chức đề nghị cần xem xét tính phù hợp, khả thi và hệ lụy của kế hoạch tiếp tục phát triển điện than mới trên nhiều khía cạnh.
Bài học phát triển nhiệt điện than ở giai đoạn trước (2016-2020) cho thấy loại hình này gặp rất nhiều khó khăn về huy động vốn. Người dân và chính quyền địa phương không ủng hộ nên huy động chỉ đạt được khoảng 57,6% kế hoạch theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh.
Giai đoạn 5 năm vừa qua, khoảng 7 GW điện than vào vận hành. Trong đó, riêng năm 2020, chỉ 1 tổ máy (0,6 GW) vào vận hành. Những khó khăn này sẽ tiếp tục trong tương lai, dẫn tới nguy cơ chậm tiến độ của các dự án điện than.
Bên cạnh đó, 86% công suất nguồn than mới phải sử dụng nhiên liệu nhập khẩu cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nguồn cung bên ngoài. Trong khi đó, khả năng nhập khẩu từ các nguồn đang được xác định trong dự thảo dự báo gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới an ninh năng lượng quốc gia.
Ngoài ra, theo 3 liên minh nói trên, các nhà máy điện than mới với công nghệ cao hơn không giải quyết được triệt để vấn đề môi trường. So với các nguồn năng lượng tái tạo, điện than dần trở nên đắt đỏ hơn.
Theo các tổ chức này, việc tiếp tục phát triển điện than mới sẽ đặt Việt Nam ở chiều ngược lại với xu thế của thế giới và nỗ lực thực hiện mục tiêu khí hậu của Thỏa thuận Paris. Để đạt được mục tiêu, chậm nhất đến năm 2040, tất cả nhà máy điện than toàn cầu phải đóng cửa. Dù vậy, như dự thảo hiện nay, các nhà máy điện than sẽ tiếp tục vận hành ít nhất đến năm 2050, thậm chí 2070.
Cũng theo kịch bản chọn trong dự thảo Quy hoạch điện VIII, với cơ cấu nguồn điện đề xuất thì tổng lượng phát thải bụi ô nhiễm tăng liên tục từ 9.500 tấn vào năm 2020 tới trên 42.000 tấn năm 2035 (tăng khoảng 4 lần).
Lượng phát thải này tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm không khí, tác động đến môi trường sinh thái và sức khỏe cộng đồng. Nguồn của lượng phát thải trên được xác định chủ yếu từ các nhà máy nhiệt điện than có trong quy hoạch và đã được tính toán thành chi phí. So sánh từng nguồn nhiên liệu riêng biệt cho thấy chi phí thiệt hại liên quan đến than là cao hơn cả và có tốc độ tăng nhanh chóng theo tốc độ tăng của nguồn điện này.
Dẫn nghiên cứu mới đây của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch (CREA) đánh giá tác động của các nhà máy nhiệt điện than ở 10 địa phương dự kiến bổ sung các dự án mới theo dự thảo Quy hoạch điện VII và tác động tới các địa phương trên cả nước, bản góp ý của VSEA, VRN đã chỉ ra nhiều vấn đề.
Cụ thể, theo các nghiên cứu này, 16 dự án điện than mới (với tổng công suất khoảng 22GW) nếu được xây dựng và vận hành theo dự thảo Quy hoạch điện VIII sẽ gây ra gần 1.000 ca tử vong sớm ở Việt Nam. Tổn thất kinh tế cho xã hội do chi phí y tế, giảm năng suất lao động và tuổi thọ ước tính là khoảng 270 triệu USD hàng năm. Tính theo vòng đời 30 năm của những dự án trên, tổng số ca tử vong sớm ước tính khoảng 46.000. Tổn thất kinh tế cộng dồn sau 30 năm lên tới 8 tỷ USD.
Ngoài ra, dự thảo chỉ rõ, bụi gây ô nhiễm không chỉ được phát tán bởi các nơi có nhà máy mà phát tán theo vùng. Hà Nội thời gian vừa qua hứng chịu bụi từ các nhà máy tại khu vực Đông Bắc Bộ là một ví dụ.
Cũng theo CREA cũng chỉ ra rằng các địa phương có nhà máy chỉ chịu ảnh hưởng khoảng 7%. Khoảng 93% tác động của những nhà máy này rơi vào các tỉnh/thành lân cận trên cả nước. Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đồng Nai, và Bình Dương bị ảnh hưởng lớn nhất.
Theo 3 liên minh, người dân những tỉnh có nhiệt điện than như (Bình Thuận, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Dương…) đã khiếu kiện, biểu tình kéo dài do dự án gây ô nhiễm môi trường, từ đó xuất hiện mâu thuẫn nội bộ.
Theo Nguyễn Mạnh/Dân trí
https://dantri.com.vn/kinh-doanh/3-lien-minh-de-xuat-khong-do-them-tien-vao-nhiet-dien-than-10-nam-toi-20210305064530010.htm