"Ăn thịt người” là biệt danh của vi khuẩn Vibrio vulnificus, làm hoại tử mô nên có cảm giác đang ăn thịt; còn gây Whitmore là khuẩn Burkholderia pseudomallei.
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Vũ, Viện Nghiên cứu ung thư City of Hope, Mỹ, cho biết nhiều người lầm tưởng bệnh Whitmore do vi khuẩn "ăn thịt người" gây ra. Thực tế vi khuẩn gây Whitmore có tên Burkholderia pseudomallei, gây chết người do viêm phổi, nhiễm trùng máu. Trường hợp nặng nhất có thể suy nội tạng khi không điều trị kịp thời và đúng cách. Vi khuẩn này kháng nhiều loại kháng sinh thông thường, hệ miễn dịch của cơ thể không chống lại chúng một cách hữu hiệu.
Tiến sĩ Trịnh Thành Trung, Viện trưởng Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội, người có 15 năm kinh nghiệm nghiên cứu về bệnh Whitmore, khẳng định vi khuẩn Whitmore không phải là "vi khuẩn ăn thịt người". Phương cách vi khuẩn Whitmore tấn công là gây viêm và áp xe ở các cơ quan trên cơ thể giống với các căn nguyên gây bệnh truyền nhiễm khác. Còn vi khuẩn Vibrio vulnificus có trong vùng nước biển ấm, ô nhiễm, tấn công qua vết thương hở hoặc khi ăn hải sản sống, bẩn. Khuẩn này có thể gây nhiễm trùng máu và tử vong nhanh chóng, đặc biệt ở người có bệnh gan, miễn dịch suy yếu.
Vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây bệnh Whitmore. Ảnh: aljazeera
Vi khuẩn Burkholderia pseudomallei được Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh của Mỹ CDC liệt vào đối tượng có nguy cơ như "khủng bố sinh học" vì tính nguy hiểm. Cứ 10 người nhiễm vi khuẩn nếu không được điều trị thì 9 người tử vong. Người được điều trị đúng kháng sinh thì vẫn có khoảng 4 trong số 10 người tử vong. Nếu điều trị trong cơ sở y tế với chăm sóc tích cực có thể giảm tỷ lệ tử vong còn dưới 2 trong 10 người.
Bệnh Whitmore thường xảy ra ở miền Bắc Australia, Papua New Guinea, Đông Nam Á, ở hầu hết các tiểu lục địa Ấn Độ và miền Nam Trung Quốc, Hong Kong, Đài Loan. Bệnh xuất hiện nhiều vào mùa mưa.
Theo tiến sĩ Vũ, bệnh Whitmore được mệnh danh là "kẻ bắt chước vĩ đại" do không có hội chứng lâm sàng bệnh lý đặc hiệu. Các triệu chứng lâm sàng thường rất giống với các bệnh khác như bệnh lao phổi, bệnh cúm, sốt nên nhiều trường hợp không phát hiện bệnh này sớm mà nhầm lẫn với các bệnh khác.
Thời gian ủ bệnh thường từ một đến 21 ngày, trung bình là 9 ngày. Mức độ nghiêm trọng của bệnh dựa vào tình trạng nhiễm trùng, có thể gây sốt, ho, đau ngực, đau đầu, chán ăn, đau khớp, suy hô hấp... Người bệnh tiểu đường, bệnh phổi mãn tính, bệnh thận mãn tính và ung thư có nguy cơ tử vong cao hơn khi nhiễm vi khuẩn này.
Đường lây nhiễm chủ yếu do hít phải bụi bẩn, giọt nước hoặc uống phải nước bị ô nhiễm chứa vi khuẩn và tiếp xúc với đất bị ô nhiễm chứa vi khuẩn, đặc biệt là qua các vết trầy xước trên da. Việc lây nhiễm giữa người với người rất khó xảy ra trong quan hệ thường ngày, chỉ có thể xảy ra qua quan hệ tình dục, hoặc sử dụng chung kim tiêm.
Phát hiện bằng nuôi cấy khuẩn là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh Whitmore. Sự tuân thủ điều trị là rất quan trọng để tránh biến chứng nghiêm trọng. Tỷ lệ tái phát của bệnh là từ 5 đến 25%. Hiện chưa có vắcxin để chủng ngừa.
Người trong vùng nhiễm nên tránh tiếp xúc trực tiếp với đất hoặc nước tù đọng. Người tiếp xúc với đất và nước nên sử dụng ủng cao su, găng tay cao su.
Dự báo của các chuyên gia quốc tế, mỗi năm Việt Nam có khoảng 10.000 ca nhiễm bệnh và khoảng 5.000 ca tử vong. Hiện có 38 bệnh viện ở 26 tỉnh, thành phố được đào tạo về phương pháp xét nghiệm bệnh, phát hiện gần 1.000 ca nhiễm Whitmore trong cả nước. Số ca Whitmore tăng gần đây không phải do bùng phát về dịch bệnh mà nhờ nhiều cơ sở đã xét nghiệm được đúng bệnh hơn.
Theo Lê Phương/VnExpress